TA LÀ ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
“Ta Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” là câu mà Đức Maria đã trả lời cho cô bé Bernadette, khi cô hỏi: “Bà là ai?”; trong cuộc hiện ra của Mẹ cho cô ở Lộ Đức ngày 25.3.1858.
Qua câu trả lời này Mẹ Maria đã chính thức giới thiệu căn tính của mình, đồng thời cũng như là một dấu ấn cho tín điều MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI đã được ĐTC Piô IX long trọng tuyên bố trước đó 4 năm, qua trọng sắc Ineffabilis Deus, ngày 08.12.1854: “Với uy quyền của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô , của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, cũng như của riêng Ta, Ta công bố, tuyên ngôn và xác nhận tín điều được mạc khải bởi Thiên Chúa buộc mọi tín hữu phải tin vững vàng và trung kiên là ‘Rất Thánh trinh nữ Maria, ngay từ giây phút đầu thai, nhờ đặc ân của Thiên Chúa toàn năng và công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, đấng Cứu Thế, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội ”(TCF: 204).[1]
Chúng ta cùng ngược dòng lịch sử để thấy rõ hơn tiến trình hình thành tín điều này đã trải qua nhiều cam go. Thật vậy, năm 1568, thánh Giáo Hoàng Piô V đã đưa lễ ấy vào sách kinh La Mã, nhưng vấn đề Đức Maria vô nhiễm còn bị tranh luận nhiều. Năm 1617, một sắc lệnh của ĐGH Phaolô V cấm những người chống lại sự vô nhiễm nguyên tội, bênh vực công khai luận án của mình. Nhưng cùng lúc đó, tòa án dị giáo La Mã chống lại tước hiệu vô nhiễm dành cho Đức Maria và năm 1627 xin được một sắc lệnh tịch thu hết các sách mang tước hiệu đó.[2]
Bà Louise de Marillac (1591-1660), Đấng Sáng Lập, cùng với Thánh Vinh Sơn Phaolô, Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, sống vào thời kỳ có cuộc chạm trán giữa những người tán thành sự vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria với những người bác bỏ điều ấy. Tuy nhiên, nhờ sự suy niệm lâu dài về sự cao cả của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, làm cho bà Louise thấy tầm quan trọng của sự vô nhiễm nguyên tội: “Lạy Đức Trinh Nữ, con muốn ca ngợi Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ của Con Ngài và nhờ Ngài mà sự thụ thai của Mẹ được trong trắng không tì vết, vì Mẹ đã được ngăn ngừa trước nhờ công nghiệp của cái chết của Con của Mẹ.” [3]
Ý thức mình là con của Giáo Hội, bà Louise chấp nhận trước quyết định của Giáo Hội về vấn đề này. Nhưng bà vẫn dạy các Nữ Tử Bác Ái phải noi gương các nhân đức của Mẹ, vì Mẹ là Thày dạy đời sống thiêng liêng. Hơn nữa, bà xin các chị phải tha thiết cầu nguyện để nài van Mẹ là Mẹ duy nhất của Tu Hội. Chính bà đích thân hành hương tới nhà thờ Đức Bà Chartres (thuộc thành phố Chartres, nằm ở tỉnh Eure-et-Loire, cách thủ đô Paris của Pháp khoảng 80 km về phía Tây Nam), ngày 17.10.1644, để dâng hiến trọn vẹn Tu Hội Nữ Tử Bác Ái mới 11 tuổi đời cho Đức Maria; xin Mẹ hủy diệt nó đi hơn là để nó chống lại thánh ý của Thiên Chúa[4].
Còn cha Vinh Sơn Phaolô, người đã có lòng sùng kính Đức Mẹ ngay từ thuở nhỏ. Đi chăn súc vật ngoài đồng, Vinh Sơn đã đặt một tượng Đức Mẹ trên cây sồi để ngày ngày tới đó lần hạt Mân Côi bày tỏ lòng kính mến Đức Maria. Trong bài huấn đức ngày 08.12.1658 cho các Nữ Tử Bác Ái, cha đã ngỏ lời với Đức Mẹ: “Bởi vì Mẹ cho phép chúng con gọi Mẹ là Mẹ của lòng nhân từ của con kênh mà từ đó xuất phát ơn tha thứ. Mẹ đã xin được với Thiên Chúa việc thành lập Tu Hội, xin Mẹ vui lòng đặt Tu Hội dưới sự che chở của Mẹ.”[5]
Có thể nói: với lòng nhân từ thương xót vô bờ bến, Đức Mẹ đã đáp lại lòng tin yêu của hai đấng sáng lập Tu Hội NTBA khi chọn một người con âm thầm khiêm tốn, ít ai biết đến nhất của Tu Hội để Mẹ hiện ra với chị vào năm 1830, và qua chị cho tất cả Tu Hội, Mẹ dạy bảo các NTBA phải cải thiện cách sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa, đúng với tinh thần của hai Đấng Sáng Lập. Ngoài ra, cũng qua những lần hiện ra đó; Mẹ đã trao cho Tu Hội sứ mệnh thành lập và đồng hành với Giới Trẻ Con Đức Mẹ, sứ mệnh phổ biến và truyền bá Ảnh Phép Lạ theo kiểu mẫu của Mẹ đưa ra và “câu kinh” để cầu xin Mẹ với tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội. (Xem thêm: Video Diễn Nguyện Cuộc hiện ra của Đức Mẹ )
Hai năm sau, 1832, Mẫu Ảnh đã được giáo quyền cho phép đúc ra và chuyển đến nhiều người. Họ đã làm theo lời Mẹ dạy và đã nhận được nhiều ơn trọng đại phần xác, phần hồn đúng như lời Mẹ đã hứa; làm cho cuộc tranh luận về sự vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria được “sáng” ra hơn.
Hai mươi bốn năm sau (1830-1854), như đã nói ở trên, Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bốn năm sau nữa, 1858, tại Lộ Đức, Đức Mẹ tuyên bố danh tính của Mẹ như để phê chuẩn cho tín điều trên: “Ta là đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Một điều rất thú vị là khi Đức Mẹ hiện ra với chị Catherine Labouré năm 1830 lần thứ 2, Mẹ cầm quả cầu trong hai bàn tay đưa lên cao và ngước mắt lên trời để hiến dâng thế giới và mỗi người chúng ta lên cho Thiên Chúa. Sau đó, quả cầu biến đi, Mẹ hạ hai tay xuống giãi ánh sáng từ những hạt kim cương trên tay Mẹ cho chúng ta. Hai mươi tám năm sau ở Lộ Đức, Mẹ cũng làm cùng một cử chỉ đấy khi hiện ra với Bernadette. Điều này chứng tỏ Mẹ luôn mãi là Người Mẹ nối kết các con với Thiên Chúa: bàn tay Mẹ dâng con lên Chúa, xin người nhìn đến và đoái thương con; rồi Mẹ lại nhận ơn từ Chúa và đưa xuống cho con. Ôi đẹp thay tình mẫu tử của Mẹ! Con vô cùng biết ơn Mẹ!
Điều thứ hai là, như trên đã nói, khi Bernadette hỏi “Bà là ai?” và được Đức Mẹ trả lời. Đang quì cầu nguyện, nghe được câu này, khuôn mặt cô bỗng trở nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt, Bà nói : “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội”. Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ được truyền từ miệng người này sang người khác và đám đông tự phát cất cao lời cầu khẩn: “Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ”.
Như vậy, mỗi người chúng ta hãy tin tưởng đeo Ảnh Phép Lạ / Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn và đọc lời kinh Mẹ dạy, để được Mẹ dắt tới Chúa và lãnh nhận những ơn quí báu rất cần thiết cho cuộc sống của mình, nhất là ơn thanh khiết trong tâm hồn, trong thể xác và trong trí khôn. Amen!
[1]https://www.kath-vietnamesen.de/html/tn_iu_v_c_m.html
[2] X. Sr Elisabeth Charpy, NTBA-Đường thánh thiện, Louise de Marillac, trang 174-175
[3] Nt. trang 175
[4] Bút tích thánh LdM, trang 120
[5] BNC. 08.12.1658, Coste X, 623