BƯỚC THỨ HAI: 18/12
“Lạy Chúa là Thủ Lãnh nhà Ít-ra-en…
Xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người.”[1]
Khoảng cách giữa trời và đất xa vời vợi không thể đo lường. Giữa Thiên Chúa và con người lại càng xa cách hơn: Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Tạo Hóa, con người là bụi đất và do chính Ngài tạo ra, như người thợ gốm và chiếc bình gốm được ông nắn ra!
Như vậy, làm sao con người có thể nhận ra Hoàng Tử Thiên Đình để đón nhận Ngài vào nhà mình? Vì thế, kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được thực hiện một cách tiệm tiến, phù hợp với tâm lý con người và có đủ thời gian cho con người chuẩn bị đón nhận ƠN CỨU ĐỘ.
Trước tiên, Ngài kêu gọi Áp-ra-ham, mời gọi ông ra đi đến nơi Ngài sẽ chỉ cho, và qua ông Ngài thành lập một Dân Riêng. Trong 400 năm nô lệ ở Ai Cập, Thiên Chúa đã an bài cho có một người con trai của dòng dõi này, thay vì bị giết chết ngay từ lúc mới sinh theo lệnh nhà vua, thì lại được cứu sống. Người đó chính là Mô-sê!
Kỳ diệu thay sự quan phòng của Thiên Chúa:
Mô-sê được cứu sống thay vì bị giết chết, theo lệnh vua.
Do sự quan phòng của Thiên Chúa, Mô-sê được nuôi dạy và lớn lên trong môi trường hoàng gia, trở nên một thanh niên đầy đủ sức khỏe thể xác, tinh thần và có khả năng lãnh đạo. Một lần chứng kiến người đồng hương bị đối xử tàn tệ, ông đã tiêu diệt người Ai Cập đó. Câu chuyện này bị bại lộ, ông phải bỏ Ai Cập ra đi đến một nơi khác, cưới vợ và lập cư ở đó.
Dân Ít-ra-en ngày càng đau khổ và rên siết trong cảnh nô lệ. Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van, Ngài chạnh lòng thương và không thể ngồi yên. Khi ông Mô-sê đang đi chăn chiên cho bố vợ, Ngài lên tiếng gọi ông và giao cho ông sứ vụ đi gặp vua Pharaô, xin cho con cái Ít-ra-en được ra khỏi Ai Cập. Rồi ông phải đến gặp toàn dân Ít-ra-en để “ra mắt” họ và cho họ biết chương trình của Chúa muốn cứu họ khỏi cảnh nô lệ này.
“Bây giờ, ngươi hãy đi !
Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”[2]
Sau nhiều gian nan vất vả để đối phó với vua Pharaô, Mô-sê mới đưa dân ra khỏi Ai Cập được. Ra khỏi đó, trên đường đi trong sa mạc, ông lại nhiều phen điêu đứng với những tiếng than van trách móc của dân Ít-ra-en, vì thiếu thực phẩm và những tiện nghi vật chất khác cho họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn đồng hành với dân, nghe tiếng họ kêu cầu và hỗ trợ ông Mô-sê đáp ứng nhu cầu của họ.
Thiên Chúa trao hai bia đá khắc mười điều răn cho Mô-sê
Như là giao ước giữa Chúa và Dân Riêng của Ngài.[3]
Sau 3 tháng ra khỏi Ai Cập, họ tới núi Xi-nai. Ông Mô-sê lên núi gặp Chúa. Chúa truyền cho ông hỏi ý kiến dân có muốn lập giao ước với Chúa, để trở thành DÂN RIÊNG của Chúa và Chúa sẽ là THIÊN CHÚA DUY NHẤT của dân. Dân đáp lại: “Mọi điều ĐỨC CHÚA phán bảo, chúng tôi xin làm theo.”[4] Tại núi này Thiên Chúa đã ban lề luật cho dân, đó là Mười Điều Răn.
Mô-sê là hình ảnh báo trước về vị thủ lãnh từ Chúa Cha mà đến là Đức Ki-tô, Hoàng Tử Thiên Đình, và dân riêng chính là hình ảnh Giáo Hội của Chúa Ki-tô, nghĩa là chúng ta đây, những người đã và đang đón tiếp Đức Ki-tô. Hiệp cùng với Mẹ Maria, đang cưu mang vị Thủ Lãnh đó trong cung lòng Mẹ, chúng ta hãy thưa với Ngài:
“Lạy Chúa là Thủ Lãnh nhà Ít-ra-en. Ngài đã xuất hiện trong ánh lửa bụi gai cho Mô-sê chiêm ngưỡng, ban lề luật cho ông trên đỉnh núi Xi-nai. Xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người.”[5]
(Còn tiếp)
[1] GKPV-ĐCTM kinh chiều ngày 18.12
[2] Xh 3,10
[3] X. Xh 19-20
[4] Xh 19, 8
[5] GKPV-ĐCTM kinh chiều ngày 18.12 ()